Thứ Năm, 15 tháng 6, 2017

Thơ tình Hainơ - Heinrich Heine

Christian Johann Heinrich Heine (13/12/1797 – 17/2/1856) – nhà thơ, nhà văn Đức, là một trong những nhà thơ lớn nhất của thế kỷ XIX. Tên tuổi của Heine đặt ngang hàng với Goethe, Schiller…

Tiểu sử:
Heinrich Heine sinh ở Düsseldorf, Đức trong gia đình một thương gia gốc Do Thái. Heine học ở các trường Đại học Göttingen, Bonn và Berlin, chịu ảnh hưởng của Hegel. Năm 1825 nhận bằng tiến sĩ luật và hành nghề luật nhưng say mê văn chương, cả thơ ca lẫn văn xuôi. Tác phẩm đầu tay Những bức tranh du lịch (Reisebilder, nhiều tập, xuất bản trong các năm 1826, 1827, 1829, 1831 đã mang lại danh tiếng cho ông và tiếp đấу, ông đã có thể sống được bằng nghề văn. Thành công nаy cho phép Heine cộng tác lâu năm với một nhà xuất bản ở Hamburg. Thời gian nаy ông đi sang Anh tìm kiếm cảm hứng để viết tiếp các tập sau. Quyển thơ đầu tiên Những bài thơ (Gedichte), sáng tác năm 1821, về một tình yêu cuồng si với người em họ Amalie. Tình yêu này đã truyền cảm hứng cho ông viết nên những bài thơ tình hay nhất. Tập Quyển sách những bài ca (Buch der Lieder, 1827) là tuyển tập thơ đầu tiên có đầy đủ các bài thơ ông viết. 

Năm 1831. Heine rời Đức, sang Paris, Pháp và sống ở đó cho đến hết đời, ngoại trừ một lần trở lại Đức năm 1843. Ở Pháp, ông đã liên kết với nhóm chủ nghĩa xã hội không tưởng của Count Saint-Simon, người tuyên truyền một thiên đường theo chủ nghĩa quân bình không giai cấp dựa trên những người có tài thực sự. Dù sống ở Pháp nhưng ông sáng tác về nước Đức. Thập niên 1840 ông liên tục cho ra đời những tác phẩm nổi tiếng: Atta Troll: Giấc mộng đêm hè (Atta Troll: Ein Sommernachtstraum, 1847); Thơ Mới (Neue Gedichte, 1844); Nước Đức. Câu chuyện cổ mùa đông (Deutschland, ein Wintermrchen, 1844).

Những năm tháng cuối đời, Heine bị bệnh nằm liệt giường trong suốt 8 năm trời, tuy vậy ông vẫn tiếp tục sáng tác. Bằng chứng là nhiều tuyệt tác của ông được viết trong thời gian này như Romanzero, 1851; Gedichte 1853–1854… Heinrich Heine mất ngày 17 tháng 2 năm 1856 ở Paris, mai táng tại nghĩa trang Montmartre. 

Thơ của Heine dễ đọc vì ông biết cách diễn đạt giản dị và ngắn gọn nhưng sâu sắc về ý nghĩa. Với gần 10.000 tác phẩm đủ mọi thể loại, Heine còn là nhà thơ được phổ nhạc nhiều nhất mọi thời đại. Ngoài ra, Heine nổi tiếng là một nhà tiên tri với dòng thơ: “Ở nơi mà người ta đốt sách, rồi họ sẽ đốt người”, ông viết những lời này từ năm 1821, dự báo về cảnh đốt sách và lò thiêu người Do Thái của Đức Quốc xã trong thế chiến II.

Những tác phẩm chính:
– Quyển sách những bài ca (Buch der Lieder, 1827)
– Những bức tranh du lịch (Reisebilder)
Tập 1– Du lịch Harz (Die Harzreise, 1826)
Tập 2 – Biển Bắc (Nordsee) và Ý tưởng. Sách Le Grand (Ideen. Das Buch Le Grand, 1827)
Tập 3 – Du lịch từ Munich đến Genoe (Reise von München nach Genua) và Bồn tắm Lucca (Die Bäder von Lucca, 1829)
Tập 4 – Thành phố Lucca (Die Stadt Lucca) và Những trích đoạn Anh (Englische Fragmente, 1831)
– Thơ Mới (Neue Gedichte, 1844)
– Nước Đức. Câu chuyện cổ mùa đông (Deutschland, ein Wintermrchen, 1844).
– Atta Troll: Giấc mộng đêm hè (Atta Troll: Ein Sommernachtstraum, 1847)
– Romanzero (Romanzero, 1851)

303 bài thơ tình Song Ngữ Việt – Đức
http://thoheinrichheine.blogspot.com/




EM NHƯ BÔNG HOA QUÍ

Em như bông hoa quí
Đẹp sáng tỏ, dịu hiền
Anh nhìn em, ngắm nghía
Hồn lại nổi sóng lên.

Hãy cho anh được nhé
Đưa tay đặt lên đầu
Để cầu xin Thượng Đế 
Cho em đẹp dài lâu.


Du bist wie eine Blume

Du bist wie eine Blume,
So hold und schön und rein;
Ich schau’ dich an, und Wehmuth
Schleicht mir in’s Herz hinein.

Mir ist, als ob ich die Hände
Auf’s Haupt dir legen sollt’,
Betend, daß Gott dich erhalte
So rein und schön und hold.


ĐÔI MẮT EM

Em có cả kim cương và ngọc bích
Là những gì thiên hạ vẫn đi tìm
Và em có đôi mắt vô cùng đẹp
Em yêu ơi còn ao ước gì hơn?

Vì đôi mắt của em vô cùng đẹp
Anh gửi về nguyên cả một đoàn quân
Những bài hát của trái tim tha thiết
Em yêu ơi còn ao ước gì hơn?

Trong tim anh, đôi mắt này tuyệt đẹp
Đã đặt vào dấu vết của đau thương
Vì đôi mắt anh sẵn sàng xin chết
Em yêu ơi còn ao ước gì hơn?

Du hast Diamanten und Perlen

Du hast Diamanten und Perlen,
Hast alles, was Menschenbegehr,
Und hast die schönsten Augen -
Mein Liebchen, was willst du mehr?

Auf deine schönen Augen
Hab ich ein ganzes Heer
Von ewigen Liedern gedichtet -
Mein Liebchen, was willst du mehr?

Mit deinen schönen Augen
Hast du mich gequält so sehr,
Und hast mich zu Grunde gerichtet -
Mein Liebchen, was willst du mehr?

EM THÂN YÊU

Em thân yêu, một mai này em chết
Người ta chôn em trong mộ tối đen
Thì khi đó anh sẽ chui xuống huyệt
Không sợ gì, anh ôm chặt lấy em.

Anh ghì em vào sát ngực và hôn
Lên cái xác lạnh lẽo và câm nín
Anh khóc lên, run rẩy và ngã xuống
Anh cũng trở thành xác chết như em.

Khi đêm đến những âm hồn thức dậy
Họ cùng nhau nhảy múa, cả đám đông.
Nhưng anh và em nằm yên ở đấy
Anh trong vòng tay ôm chặt của em.

Ngày Phán xét kèn gọi những âm hồn
Ai sẽ được lặng yên, ai đau khổ
Nhưng anh và em, hai đứa chẳng cần
Ôm lấy nhau ta nằm yên trong mộ.

Mein süßes Lieb, wenn du im Grab

Mein süßes Lieb, wenn du im Grab,
Im dunkeln Grab wirst liegen,
Dann will ich steigen zur dir hinab,
Und will mich an dich schmiegen.

Ich küsse, umschlinge und presse dich wild,
Du Stille, du Kalte, du Bleiche!
Ich jauchze, ich zittre, ich weine mild,
Ich werde selber zur Leiche.

Die Toten stehn auf, die Mitternacht ruft,
Sie tanzen im luftigen Schwarme;
Wir beide bleiben in der Gruft,
Ich liege in deinem Arme.

Die Toten stehn auf, der Tag des Gerichts
Ruft sie zu Qual und Vergnügen;
Wir beide bekümmern uns um nichts,
Und bleiben umschlungen liegen. 



TÔI NGHĨ ĐẾN NHÀ EM

Tôi nghĩ đến nhà em
Khi đi trên đường phố
Em ơi tôi rất mừng
Thấy em qua cửa sổ.

Đôi mắt nâu của em
Nhìn tôi như dò hỏi:
“Anh là ai, người lạ
Tại vì sao anh buồn?”

"Tôi là nhà thơ Đức
Nổi tiếng ở xứ này
Ai nhớ người nổi nhất
Người này nhớ đến tôi.

Có nhiều người như tôi
Đang buồn ở nước Đức
Ai người đau khổ nhất
Hiểu tôi buồn đến đâu”. 

Wenn ich an deinem Hause

Wenn ich an deinem Hause
Des Morgens vorübergeh,
So freut’s mich, du liebe Kleine,
Wenn ich dich am Fenster seh.

Mit deinen schwarzbraunen Augen
Siehst du mich forschend an: 
Wer bist du, und was fehlt dir, 
Du fremder, kranker Mann?

„Ich bin ein deutscher Dichter, 
Bekannt im deutschen Land; 
Nennt man die besten Namen, 
So wird auch der meine genannt.

Und was mir fehlt, du Kleine, 
Fehlt manchem im deutschen Land;
Nennt man die schlimmsten Schmerzen, 
So wird auch der meine genannt“.



LỜI NÓI ĐẦU CHO ẤN BẢN THỨ BA*

Đó là khu rừng già!
Hoa bồ đề thơm ngát
Và ánh trăng tuyệt đẹp
Làm mê hoặc hồn ta.

Bước đi như ngày ấy
Nghe vang giữa không trung
Họa mi hót về tình
Và nỗi đau tình ái.

Tình yêu và khổ ải
Nước mắt và tiếng cười
Nỗi buồn với niềm vui
Giấc mơ xưa thức dậy. 

Bước đi như ngày ấy
Hiện ra trước mắt ta
Một cung điện thật to
Hướng trời cao vòi vọi. 

Cửa sổ đóng kín mít
Buồn bã và thê lương
Dường như ở bên trong
Đang trị vì cái chết. 

Nhân sư đặt trước cửa**
Sự ham muốn kinh hoàng
Sư tử – mình và chân
Ngực và đầu – phụ nữ. 

Người phụ nữ xinh đẹp!
Về dục vọng người trần
Nụ cười trong lặng thầm
Môi im lìm khao khát. 

Họa mi cất tiếng hát
Ta không thể cầm lòng
Hôn gương mặt đẹp xinh
Ta như người sắp chết. 

Tượng đá bỗng tỉnh giấc
Bắt đầu thổn thức lên
Ừng ực uống nụ hôn 
Với vẻ đầy khao khát. 

Và uống từng hơi thở
Quyến rũ và ngọt ngào
Sau đó ôm lấy ta
Bằng đôi chân sư tử.

Một nỗi đau đê mê
Và đam mê vô tận
Vừa hôn vừa giơ móng
Cào xé xác thân ta.

Họa mi: “Ôi Nhân sư!
Tình yêu là gì vậy
Sướng vui và khổ ải
Lại hòa quyện vào nhau?

Nhân sư! Hãy bật mí
Một câu đố tuyệt vời
Mà hàng ngàn năm nay
Câu trả lời chẳng có”.

Tất cả những điều này tôi đã có thể kể thành một câu chuyện bằng văn xuôi hay… Nhưng khi một lần nữa đọc lại những bài thơ cũ để sửa chữa một vài chỗ nhân dịp ấn bản lần thứ ba, vần và nhịp điệu lại trở về theo thói quen và tôi viết thành thơ để mở đầu cho “Quyển sách những bài ca” ấn bản lần thứ ba. Hỡi thần Apollo! Nếu những dòng thơ này dở thì xin Ngài vui lòng tha thứ cho tôi… Vì rằng Ngài là vị thần đầy quyền năng và biết rằng tại vì sao trong rất nhiều năm tôi không có điều kiện để viết những lời ngân vang***… Ngài biết rằng tại sao ngọn lửa một thời rực sáng như pháo hoa từng an ủi cả thế giới bỗng được dùng cho những đám cháy nghiêm trọng hơn… Ngài biết rằng tại vì sao ngọn lửa im lặng bây giờ đang gặm nhấm trái tim tôi… Ngài hiểu tôi, hỡi vị thần vĩ đại và tuyệt vời, – Ngài cũng giống như tôi, đem đổi cây đàn lia bằng vàng để lấy cây cung căng và những mũi tên chết chóc… Hẳn Ngài còn nhớ Marsyas, kẻ đã bị Ngài lột da? Điều này xảy ra từ xa xưa và bây giờ vẫn cần lấy làm ví dụ… Hẳn Ngài đang mỉm cười, hỡi người Cha muôn thuở của tôi!
Viết tại Paris ngày 20 tháng 2 năm 1839.

Heinrich Heine.
_________________
*Lời nói đầu cho ấn bản thứ ba của “Quyển sách những bài ca” (1839). Trong ấn bản tiếng Pháp (H. Heine. Poèmes et légendes., 1855.) bài thơ này được đưa vào làm “Khúc dạo đầu” cho tập “Khúc đệm trữ tình”.
***Nhân sư (Sphinx) – là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện bằng một con sư tử nằm với một cái đầu người phụ nữ. Người Hy Lạp cổ cho là một quái vật nữ, “kẻ bóp cổ”, một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp.
***Ý Heine nói đến loạt bài viết từ sau Cách mạng tháng Bảy (1830) ở Pháp với những tranh luật gay gắt với các luồng tư tưởng phản động.
****Marsyas – là thần dê trong thần thoại Hy Lạp. Marsyas thách Appollo (thần ánh sáng, chân lý và nghệ thuật trong thần thoại Hy Lạp) thi tài về âm nhạc. Appollo thắng và lột da của Marsyas.


Vorrede zur dritten Auflage

Das ist der alte Märchenwald!
Es duftet die Lindenblüte!
Der wunderbare Mondenglanz
Bezaubert mein Gemüte.

Ich ging fürbaß, und wie ich ging,
Erklang es in der Höhe.
Das ist die Nachtigall, sie singt
Von Lieb und Liebeswehe.

Sie singt von Lieb und Liebesweh,
Von Tränen und von Lachen,
Sie jubelt so traurig, sie schluchzet so froh,
Vergessene Träume erwachen. -

Ich ging fürbaß, und wie ich ging,
Da sah ich vor mir liegen,
Auf freiem Platz, ein großes Schloß,
Die Giebel hoch aufstiegen.

Verschlossene Fenster, überall
Ein Schweigen und ein Trauern;
Es schien, als wohne der stille Tod
In diesen öden Mauern.

Dort vor dem Tor lag eine Sphinx,
Ein Zwitter von Schrecken und Lüsten,
Der Leib und die Tatze wie ein Löw,
Ein Weib an Haupt und Brüsten.

Ein schönes Weib! Der weiße Blick,
Er sprach von wildem Begehren;
Die stummen Lippen wölbten sich
Und lächelten stilles Gewähren.

Die Nachtigall, sie sang so süß -
Ich konnt nicht widerstehen -
Und als ich küßte das holde Gesicht,
Da wars um mich geschehen.

Lebendig ward das Marmorbild,
der Stein begann zu ächzen -
Sie trank meiner Küsse lodernde Glut
Mit Dürsten und mit Lechzen.

Sie trank mir fast den Odem aus -
Und endlich, wollustheischend,
Umschlang sie mich, meinen armen Leib
Mit den Löwentatzen zerfleischend.

Entzückende Marter und wonniges Weh!
Der Schmerz wie die Lust unermeßlich!
Derweilen des Mundes Kuß mich beglückt,
Verwunden die Tatzen mich gräßlich.

Die Nachtigall sang: »O schöne Sphinx!
O Liebe! was soll es bedeuten,
Daß du vermischest mit Todesqual
All deine Seligkeiten?

O schöne Sphinx! O löse mir
Das Rätsel, das wunderbare!
Ich hab darüber nachgedacht
Schon manche tausend Jahre.«

Das hätte ich alles sehr gut in guter Prosa sagen können... Wenn man aber die alten Gedichte wieder durchliest, um ihnen, behufs eines erneueten Abdrucks, einige Nachfeile zu erteilen, dann überschleicht einen unversehens die klingelnde Gewohnheit des Reims und Silbenfalls, und siehe! es sind Verse, womit ich die dritte Auflage des Buchs der Lieder eröffne. O Phöbus Apollo! sind diese Verse schlecht, so wirst du mir gern verzeihen... Denn du bist ein allwissender Gott, und du weißt sehr gut, warum ich mich seit so vielen Jahren nicht mehr vorzugsweise mit Maß und Gleichklang der Wörter beschäftigen konnte... Du weißt, warum die Flamme, die einst in brillanten Feuerwerkspielen die Welt ergötzte, plötzlich zu weit ernsteren Bränden verwendet werden mußte... Du weißt, warum sie jetzt in schweigender Glut mein Herz verzehrt... Du verstehst mich, großer schöner Gott, der du ebenfalls die goldene Leier zuweilen vertauschtest mit dem starken Bogen und den tödlichen Pfeilen... Erinnerst du dich auch noch des Marsyas, den du lebendig geschunden? Es ist schon lange her, und ein ähnliches Beispiel tät wieder not... Du lächelst, o mein ewiger Vater!
Geschrieben zu Paris den 20. Februar 1839.

Heinrich Heine.



CHÚA TẠO RA MẶT TRỜI 

Chúa tạo ra mặt trời
Những ngôi sao sau đấy
Và tạo ra con bò 
Từ giọt mồ hôi chảy.

Ngài tạo thú hoang dã:
Sư tử chân kinh hoàng
Và theo mẫu sư tử
Ngài tạo chú mèo con.

Ngài tạo ra đàn ông
Giữa thú rừng hoang dã
Và tạo ra con khỉ
Gần giống với đàn ông.

Quỉ thấy vậy cười gằn:
Chúa lặp lại chính mình
Lấy con bò làm mẫu
Ngài tạo chú bê con. 

Im Beginn schuf Gott die Sonne

Im Beginn schuf Gott die Sonne,
Dann die nächtlichen Gestirne;
Hierauf schuf er auch die Ochsen,
Aus dem Schweiße seiner Stirne.

Später schuf er wilde Bestien,
Löwen mit den grimmen Tatzen;
Nach des Löwen Ebenbilde
Schuf er hübsche kleine Katzen.

Zur Bevölkerung der Wildnis
Ward hernach der Mensch erschaffen;
Nach des Menschen holdem Bildnis
Schuf er intressante Affen.

Satan sah dem zu und lachte:
Ei, der Herr kopiert sich selber!
Nach dem Bilde seiner Ochsen
Macht er noch am Ende Kälber!


CHÚA TRẢ LỜI VỚI QUỶ 

Chúa trả lời với quỷ:
Ta là Chúa, vì thế
Theo mặt trời – tạo sao
Theo mẫu bò – tạo bê
Theo sư tử đáng sợ
Tạo con mèo đáng yêu
Theo con người – tạo khỉ
Còn mi, tạo gì đâu?

Und der Gott sprach zu dem Teufel

Und der Gott sprach zu dem Teufel:
Ich, der Herr, kopier mich selber,
Nach der Sonne mach ich Sterne,
Nach den Ochsen mach ich Kälber,
Nach den Löwen mit den Tatzen
Mach ich kleine liebe Katzen,
Nach den Menschen mach ich Affen;
Aber du kannst gar nichts schaffen.




CON NGƯỜI, SƯ TỬ, BÒ, MẶT TRỜI

Con người, sư tử, bò, mặt trời
Ta tạo ra vì vinh quang, giá trị
Còn những vì sao, bê, mèo, khỉ
Ta tạo ra chỉ để giải trí thôi.

Ich hab mir zu Ruhm und Preis erschaffen

Ich hab mir zu Ruhm und Preis erschaffen
Die Menschen, Löwen, Ochsen, Sonne;
Doch Sterne, Kälber, Katzen, Affen
Erschuf ich zu meiner eigenen Wonne.


TA TẠO DỰNG THẾ GIAN

Ta tạo dựng thế gian
Chỉ trong vòng một tuần
Nhưng kế hoạch sáng tạo
Ấp ủ cả ngàn năm.

Tạo dựng – là quá trình
Dù nhào nặn giây lát
Nhưng cần phải xem xét
Nghệ sĩ mới xứng danh.

Có lẽ ba trăm năm
Ta suy nghĩ, dằn vặt:
Tạo ông tiến sĩ luật
Hay bọ chét loăng quăng.

Kaum hab ich die Welt zu schaffen begonnen

Kaum hab ich die Welt zu schaffen begonnen,
In einer Woche wars abgetan.
Doch hatt ich vorher tief ausgesonnen
Jahrtausendlang den Schöpfungsplan.

Das Schaffen selbst ist eitel Bewegung,
Das stümpert sich leicht in kurzer Frist;
Jedoch der Plan, die Überlegung,
Das zeigt erst, wer ein Künstler ist.

Ich hab allein dreihundert Jahre
Tagtäglich drüber nachgedacht,
Wie man am besten Doctores juris
Und gar die kleinen Flöhe macht.



NGÀY THỨ SÁU CHÚA BẢO 

Ngày thứ sáu Chúa bảo:
Đã đến ngày cuối cùng
Sự sáng tạo tuyệt diệu
Tất cả đã thành công.

Chao ôi mặt trời vàng
Lấp lánh trên đại dương!
Chao ôi cây tỏa bóng
Như trong một bức tranh?

Không trắng như tuyết tùng
Bầy chiên trên đồng cỏ?
Chẳng lẽ không tuyệt mỹ
Sắc đẹp của thiên nhiên?

Đất, trời đã tạo xong
Như lòng ta mong muốn.
Loài người sẽ ca tụng
Thiên Chúa suốt vĩnh hằng!

Sprach der Herr am sechsten Tage

Sprach der Herr am sechsten Tage:
Hab am Ende nun vollbracht
Diese große, schöne Schöpfung,
Und hab alles gut gemacht.

Wie die Sonne rosengoldig
In dem Meere widerstrahlt!
Wie die Bäume grün und glänzend!
Ist nicht Alles wie gemalt?

Sind nicht weiß wie Alabaster
Dort die Lämmchen auf der Flur?
Ist sie nicht so schön vollendet
Und natürlich die Natur?

Erd und Himmel sind erfüllet
Ganz von meiner Herrlichkeit,
Und der Mensch, er wird mich loben
Bis in alle Ewigkeit!


VẬT CHẤT ĐỂ TẠO RA THƠ

Vật chất, vật liệu để tạo ra thơ
Đâu phải lấy từ ngón tay là có
Ngay Thiên Chúa cũng không tạo ra gì
Nếu vật chất của Ngài không đầy đủ. 

Từ cát bụi thuở hồng hoang xưa cổ
Ngài đã tạo nên một người đàn ông
Rồi từ xương sườn người đàn ông đó
Ngài tạo nên phụ nữ đẹp tuyệt trần.

Từ cát bụi Ngài tạo ra trời xanh
Và thiên thần tạo ra từ phụ nữ.
Mà vật chất chỉ trở nên giá trị
Nhờ sự gọt mài nghệ thuật dày công.

Der Stoff, das Material des Gedichts

Der Stoff, das Material des Gedichts,
Das saugt sich nicht aus dem Finger;
Kein Gott erschafft die Welt aus nichts,
So wenig wie irdische Singer.

Aus vorgefundenem Urweltsdreck
Erschuf ich die Männerleiber,
Und aus dem Männerrippenspeck
Erschuf ich die schönen Weiber.

Den Himmel erschuf ich aus der Erd
Und Engel aus Weiberentfaltung;
Der Stoff gewinnt erst seinen Wert
Durch künstlerische Gestaltung.



SÁNG TẠO ĐỂ LÀM GÌ 

Sáng tạo để làm gì?
Một câu hỏi như vậy 
Tâm hồn tôi bừng cháy
Như ngọn lửa điên rồ.

Bệnh tật là lý do
Thôi thúc sự sáng tạo
Tôi cảm thấy mạnh khỏe
Khi sáng tạo điều gì.

Warum ich eigentlich erschuf

Warum ich eigentlich erschuf
Die Welt, ich will es gern bekennen:
Ich fühlte in der Seele brennen
Wie Flammenwahnsinn, den Beruf.

Krankheit ist wohl der letzte Grund
Des ganzen Schöpferdrangs gewesen;
Erschaffend konnte ich genesen,
Erschaffend wurde ich gesund.

Xem thêm:


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét