Thứ Năm, 15 tháng 6, 2017

Thơ H. Heine - Bên kia sông Ranh


BÊN KIA SÔNG RANH

Giữa đồng cỏ hoang sơ
Giữa hoa hồng thơm ngát
Láu lỉnh và khù khờ
Yêu nhau theo đủ cách
Trong nghệ thuật tình yêu
Bậc thầy là người Pháp. 

Còn chúng ta hiểu nhau
Người Đức chỉ biết ghét
Chất chứa ở trong đầu
Hận thù như thuốc độc
Giá như mà đem rót
Thùng Hai-đơ-béc bé teo*.
________________
*Thùng ở Heidelberg – là một chiếc thùng cực lớn bằng gỗ sồi có dung tích 212.422 lít dùng để ủ rượu vang được đặt ngầm dưới một tòa lâu đài. Đây là một danh thắng nổi tiếng của thành phố Heidelberg.

Diesseits und jenseits des Rheins

Sanftes Rasen, wildes Kosen,
Tändeln mit den glühnden Rosen,
Holde Lüge, süßer Dunst,
Die Veredlung roher Brunst,
Kurz, der Liebe heitre Kunst -
Da seid Meister ihr, Franzosen!

Aber wir verstehn uns baß,
Wir Germanen, auf den Haß.
Aus Gemütes Tiefen quillt er,
Deutscher Haß! Doch riesig schwillt er,
Und mit seinem Gifte füllt er
Schier das Heidelberger Faß.

Thùng Hai-đơ-béc

NƯỚC ĐỨC QUÊ HƯƠNG TÔI

Nước Đức quê hương tôi
Đâu cũng có cây đời
Trái chín mọng, nhưng khổ
Hình nộm dọa khắp nơi.

Ta như bầy chim sẻ
Sợ yêu tinh, quỉ sứ
Nhìn anh đào nở hoa
Mà đành lòng nín chịu.

Anh đào đỏ, nhưng hột
Bên trong là cái chết
Chỉ ở trên trời cao
Có anh đào không hột. 

Chúa Cha – Con – Thánh thần
Mà hồn ta ngợi khen
Khát khao cái vĩnh cửu
Linh hồn Đức đáng thương. 

Chỉ nơi có thiên thần
Là hạnh phúc muôn năm
Còn ở đây đau khổ
Anh đào cũng chua lòm.


Im lieben Deutschland daheime

Im lieben Deutschland daheime,
Da wachsen viel Lebensbäume;
Doch lockt die Kirsche noch so sehr,
Die Vogelscheuche schreckt noch mehr.

Wir lassen uns wie Spatzen
Einschüchtern von Teufelsfratzen;
Wie auch die Kirsche lacht und blüht,
Wir singen ein Entsagungslied:

Die Kirschen sind von außen rot,
Doch drinnen steckt als Kern der Tod;
Nur droben, wo die Sterne,
Gibts Kirschen ohne Kerne.

Gott Vater, Gott Sohn, Gott heiliger Geist,
Die unsere Seele lobt und preist -
Nach diesen sehnet ewiglich
Die arme deutsche Seele sich.

Nur wo die Engel fliegen,
Da wächst das ewge Vergnügen;
Hier unten ist alles Sünd und Leid
Und saure Kirsche und Bitterkeit.


THƠ CỦA ANH CÓ ĐỘC

Thơ của anh có độc
Sao khác được đâu em?
Và nọc độc của mình
Vào chén anh, em rót.

Thơ của anh có độc
Sao khác được đâu em?
Nhiều rắn trong tim anh
Và cả em, ác thật.

Vergiftet sind meine Lieder

Vergiftet sind meine Lieder; -
Wie könnte es anders sein?
Du hast mir ja Gift gegossen
Ins blühende Leben hinein.

Vergiftet sind meine Lieder; -
Wie könnte es anders sein?
Ich trage im Herzen viel Schlangen,
Und dich, Geliebte mein.



BẠN THÂN YÊU

Bạn thân yêu ơi, bạn đã yêu rồi
Nỗi khổ đau mới mẻ đang tìm đến
Trong đầu bạn một màn sương u ám
Nhưng trong con tim của bạn sáng ngời.

Bạn thân yêu ơi, bạn đã yêu rồi
Dù điều này bạn không hề thừa nhận
Nhưng tôi nhìn thấy con tim ánh sáng
Đã chui qua áo của bạn, bạn ơi.

Teurer Freund, du bist verliebt

Teurer Freund, du bist verliebt,
Und dich quälen neue Schmerzen;
Dunkler wird es dir im Kopf,
Heller wird es dir im Herzen.

Teurer Freund, du bist verliebt,
Und du willst es nicht bekennen,
Und ich seh des Herzens Glut
Schon durch deine Weste brennen. 



TỪ NƯỚC MẮT CỦA ANH

Từ nước mắt của anh
Sinh nhiều bông hoa đẹp
Và tiếng thổn thức lòng
Cho họa mi vui hót.

Nếu như em yêu anh
Anh tặng nhiều hoa đẹp.
Bên cửa sổ nhà em
Họa mi vui vẻ hót.

Aus meinen Tränen sprießen

Aus meinen Tränen sprießen
Viel blühende Blumen hervor,
Und meine Seufzer werden
Ein Nachtigallenchor.

Und wenn du mich lieb hast, Kindchen,
Schenk ich dir die Blumen all,
Und vor deinem Fenster soll klingen
Das Lied der Nachtigall.


Ở NHÀ NGƯỜI ĐÁNH CÁ 

Hôm nọ chúng tôi ngồi
Ở nhà người đánh cá
Màn sương chiều khi đó
Đã bao trùm biển khơi.

Trên đỉnh cây đèn biển
Có ánh sáng lập lòe
Và ở phía xa xa
Một con thuyền đang hiện.

Trò chuyện về thủy thủ
Bão tố và đắm tàu
Giữa biển và trời cao
Về niềm vui, nỗi sợ.

Về những xứ xa xăm
Phương Nam và phương Bắc
Về người dân, hủ tục
Kỳ quặc và lạ lùng.

Về chuyện bên sông Hằng
Có một khu rừng lớn
Những người dân lẳng lặng
Quỳ lạy trước hoa sen.

Dân ở vùng Lappland
Thấp bé và mỏ quặp 
Ngồi nướng cá bên bếp
Vừa gào thét vừa ăn.

Những cô gái mơ màng
Và chúng tôi im lặng...
Và con thuyền chìm đắm
Giữa trời nước màu đen.



Wir saßen am Fischerhause

Wir saßen am Fischerhause,
Und schauten nach der See;
Die Abendnebel kamen,
Und stiegen in die Höh.

Im Leuchtturm wurden die Lichter
Allmählig angesteckt,
Und in der weiten Ferne
Ward noch ein Schiff entdeckt.

Wir sprachen von Sturm und Schiffbruch,
Vom Seemann, und wie er lebt
Und zwischen Himmel und Wasser
Und Angst und Freude schwebt.

Wir sprachen von fernen Küsten,
Vom Süden und vom Nord,
Und von den seltsamen Völkern
Und seltsamen Sitten dort.

Am Ganges duftets und leuchtets,
Und Riesenbäume blühn,
Und schöne, stille Menschen
Vor Lotosblumen knien.

In Lappland sind schmutzige Leute,
Plattköpfig, breitmäulig und klein;
Sie kauern ums Feuer, und backen
Sich Fische, und quäken und schrein.

Die Mädchen horchten ernsthaft,
Und endlich sprach niemand mehr;
Das Schiff ward nicht mehr sichtbar,
Es dunkelte gar zu sehr.



CÔ NÀNG ĐÁNH CÁ 

Một cô nàng đánh cá
Đưa con thuyền vào bờ.
Em ơi, em hãy ghé
Đôi ta sẽ chuyện trò.

Hãy sát lại gần anh
Đừng ngại gì em nhé
Ngày ngày trên biển cả
Với số phận của mình. 

Tim anh như biển cả
Có thủy triều, bão giông
Và bao nhiêu ngọc quí
Chất chứa ở trong lòng.

Du schönes Fischermädchen

Du schönes Fischermädchen,
Treibe den Kahn an’s Land;
Komm zu mir und setze dich nieder,
Wir kosen Hand in Hand.

Leg’ an mein Herz dein Köpfchen,
Und fürchte dich nicht zu sehr,
Vertrau’st du dich doch sorglos
Täglich dem wilden Meer.

Mein Herz gleicht ganz dem Meere,
Hat Sturm und Ebb’ und Fluth,
Und manche schöne Perle
In seiner Tiefe ruht.

Xem thêm:




Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét