Thứ Bảy, 24 tháng 6, 2017

Thơ Hainơ - Trên bảo dưới không nghe


TRÊN BẢO DƯỚI KHÔNG NGHE

Một cô gái tóc đen
Đưa bàn tay ve vuốt
Mái đầu tôi đã bạc
Nước mắt chảy ròng ròng. 

Người tôi bị uốn cong
Nụ hôn làm mù mắt
Héo hon trong đầu óc
Vì những nụ hôn nồng.

Thân tôi như xác chết
Linh hồn bị cầm tù
Trên bảo dưới không nghe
Chẳng biết làm sao được.

Sự bất lực chết tiệt!
Giống như một bầy ruồi
Chỉ đành chịu đựng thôi
Đành nguyện cầu và khóc. 

Es hatte mein Haupt die schwarze Frau

Es hatte mein Haupt die schwarze Frau
Zärtlich an’s Herz geschlossen;
Ach! meine Haare wurden grau,
Wo ihre Thränen geflossen.

Sie küßte mich lahm, sie küßte mich krank,
Sie küßte mir blind die Augen;
Das Mark aus meinem Rückgrat trank
Ihr Mund mit wildem Saugen.

Mein Leib ist jetzt ein Leichnam, worin
Der Geist ist eingekerkert –
Manchmal wird ihm unwirsch zu Sinn,
Er tobt und rast und berserkert.

Ohnmächtige Flüche! Dein schlimmster Fluch
Wird keine Fliege tödten.
Ertrage die Schickung, und versuch’
Gelinde zu flennen, zu beten.



HÌNH DẠNG CỦA NHÂN SƯ

Hình dạng của Nhân sư*
Gán vào người phụ nữ
Chỉ khác phần phụ là 
Thân hình con sư tử.

Bóng đen của cái chết
Đây quả đúng Nhân sư
Câu hỏi không giải ra
Cha của chàng Ê-đíp**.

Cũng may, lời giải đáp
Tôi không đủ sức làm
Nếu không, cả thế gian
Sẽ hoang tàn đổ nát.
___________
*Nhân sư (Sphinx) - là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện bằng một con sư tử nằm với một cái đầu người phụ nữ. Người Hy Lạp cổ cho là một quái vật nữ, “kẻ bóp cổ”, một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp.
**Ê-đíp (Oedipus) – là con trai của vua Laius và hoàng hậu Jocasta thành Thebes (Hy Lạp). Từ trước khi chàng ra đời, có một lời sấm cho rằng chàng là người sẽ giết vua cha và cưới mẹ chàng. Vì vậy, Laius lo sợ và ông đã bàn với hoàng hậu là phải giết Oedipus do sợ chàng sẽ giết cha, cưới mẹ. Cuối cùng, Oedipus lại được giấu đi, và được một người khác nuôi ở nơi khác. Khi chàng lớn lên, lúc đó xứ Thebes gặp một tai họa lớn, có một con Nhân sư quái ác thường ra một câu đố oái oăm, ai không trả lời được thì nó xé xác. Vua Laius nghe tin, ông đi tới trả lời câu hỏi của nó, ở đây Oedipus gặp Laius, họ tranh cãi về hướng đi rồi Oedipus giết Laius mà không biết đó là cha mình. Oedipus tiếp tục đi về Thebes và giải phóng vương quốc này bằng cách giải được câu đố của Nhân sư. Chàng được phong làm vua và cưới hoàng hậu Jocasta góa phụ mà không hề biết đó là mẹ mình. Ngày kia, có một hầu cận già của vua Laius đã cho biết câu chuyện. Khi đó hoàng hậu Jocasta tự tử, Oedipus lấy cái trâm trên đầu hoàng hậu mà chọc đui mắt của mình.



Die Gestalt der wahren Sphinx

Die Gestalt der wahren Sphinx
Weicht nicht ab von der des Weibes;
Faselei ist jener Zusatz
Des betatzten Löwenleibes.

Todesdunkel ist das Rätsel
Dieser wahren Sphinx. Es hatte
Kein so schweres zu erraten
Frau Jokastens Sohn und Gatte.

Doch zum Glücke kennt sein eignes
Rätsel nicht das Frauenzimmer;
Spräch es aus das Lösungswort,
Fiele diese Welt in Trümmer.



BỞI VÌ YÊU EM

Bởi vì yêu em nên anh chạy trốn
Chia ly này – em đừng giận gì anh.
Bởi vì gương mặt của em ngời sáng
Không xứng đôi bên gương mặt u buồn.

Bởi vì yêu em mà anh tái nhợt
Nét hao gầy trên gương mặt của anh
Rồi tới đây anh trở nên khủng khiếp
Anh ra đi – em đừng giận gì anh.

Weil ich dich liebe, muß ich fliehend

Weil ich dich liebe, muß ich fliehend
Dein Antlitz meiden – zürne nicht.
Wie paßt dein Antlitz, schön und blühend,
Zu meinem traurigen Gesicht!

Weil ich dich liebe wird so bläßlich,
So elend mager mein Gesicht –
Du fändest mich am Ende häßlich –
Ich will dich meiden – zürne nicht.


ANH BIẾT EM YÊU ANH

Anh biết em yêu anh
Và từ lâu đã rõ
Nhưng khi em thổ lộ
Anh không khỏi giật mình.

Anh trèo lên ngọn núi
Hát ca và vui mừng
Bên biển giờ hoàng hôn
Anh đã tuôn dòng lệ.

Tim anh giống mặt trời
Lửa cháy bừng như thế
To lớn và tráng lệ
Giữa biển tình đang bơi.

Daß du mich liebst, das wußt ich

Daß du mich liebst, das wußt ich, 
Ich hatt es längst entdeckt; 
Doch als du mir 's gestanden 
Hat es mich tief erschreckt. 

Ich stieg wohl auf die Berge 
Und jubelte und sang; 
Ich ging ans Meer und weinte 
Beim Sonnenuntergang. 

Mein Herz ist wie die Sonne 
So flammend anzusehn, 
Und in en Meer von Liebe 
Versinkt es groß und schön.



TÔI MƠ THẤY

Tôi mơ thấy con gái của nữ hoàng
Dòng nước mắt trên má nàng tái nhợt
Chúng tôi ngồi dưới hàng cây râm mát
Không ngại ngần, tôi ôm chặt lấy em.

“Anh không cần ngai vàng của cha em
Anh không cần trang sức vàng hay bạc
Không cần vương quốc, không cần gì hết
Anh chỉ muốn em, anh chỉ cần em”.

“Nhưng mà điều này không được rồi anh
Em từ lâu đã nằm yên trong mộ
Chỉ hằng đêm em đến đây là bởi
Vì em yêu anh, vì em yêu anh”.

Mir träumte von einem Königskind

Mir träumte von einem Königskind’,
Mit nassen, blassen Wangen;
Wir saßen unter der grünen Lind’,
Und hielten uns liebumfangen.

„Ich will nicht deines Vaters Thron,
Ich will nicht sein Scepter von Golde,
Ich will nicht seine demantene Kron’,
Ich will dich selber, du Holde!“

Das kann nicht seyn, sprach sie zu mir,
Ich liege ja im Grabe,
Und nur des Nachts komm’ ich zu dir,
Weil ich so lieb dich habe.


NGÀY ẤY TUYỆT VỜI SAO 

Ngày ấy tuyệt vời sao
Tôi cám ơn số kiếp
Rượu ngon, Kitty đẹp
Con tim thật khát khao.

Đôi môi nàng hôn tôi
Say đắm và mãnh liệt
Mắt nâu nhìn háo hức
Đắm đuối đến dại người. 

Nhờ một chút tinh ranh
Mà tôi thoát ra được
Tôi lấy mái tóc đẹp
Buộc lại cánh tay nàng.

Den Tag den hab ich so himmlisch verbracht

Den Tag den hab ich so himmlisch verbracht,
Den Abend verbracht ich so göttlich,
Der Wein war gut und Kitty war schön,
Und das Herz war unersättlich.

Die roten Lippen die küßten so wild,
So stürmisch, so sinneverwirrend;
Die braunen Augen schauten mich an
So zärtlich, so knisternd, so girrend.

Das hielt mich umschlungen, und nur mit List
Konnt ich entschlüpfen am Ende.
Ich hatte in ihrem eigenen Haar
Ihr festgebunden die Hände.



NGÀY HÔM QUA HẠNH PHÚC ĐÃ HÔN TÔI 

Ngày hôm qua hạnh phúc đã hôn tôi
Hôm nay biến mất không còn dấu vết
Có lẽ tình yêu thủy chung đích thực
Trời không cho tôi giữ được lâu ngày.

Rất nhiều cô chỉ vì sự tò mò
Đã chìa những bàn tay cho tôi nắm
Rồi ngã vào vòng tay tôi âu yếm
Nhưng nhìn thấu tim liền vội bỏ đi.

Một số ra đi lặng lẽ mỉm cười
Còn số khác lại giật mình hốt hoảng
Chỉ có Kitty là khóc cay đắng
Vẻ ngậm ngùi trước khi giã từ tôi.

Das Glück, das gestern mich geküßt

Das Glück, das gestern mich geküßt,
Ist heute schon zerronnen,
Und treue Liebe hab ich nie
Auf lange Zeit gewonnen.

Die Neugier hat wohl manches Weib
In meinen Arm gezogen;
Hat sie mir mal ins Herz geschaut,
Ist sie davongeflogen.

Die eine lachte, eh sie ging,
Die andre tät erblassen;
Nur Kitty weinte bitterlich,
Bevor sie mich verlassen.


HẠNH PHÚC TRONG MƠ

Khi hoa hồng nở thắm
Họa mi hót vang rừng
Khi đó em hôn anh
Và ôm anh âu yếm.

Thu bẻ từng chiếc lá
Đuổi họa mi bay về
Và em cũng bay đi
Chỉ mình anh còn lại.

Những đêm dài tê tái
Liệu em có quay về?
Hay chỉ còn an ủi
Với hạnh phúc trong mơ?

Geträumtes Glück

Als die junge Rose blühte
Und die Nachtigall gesungen,
Hast du mich geherzt, geküsset,
Und mit Zärtlichkeit umschlungen.

Nun der Herbst die Ros entblättert
Und die Nachtigall vertrieben,
Bist du auch davon geflogen
Und ich bin allein geblieben.

Lang und kalt sind schon die Nächte -
Sag wie lange wirst du säumen?
Soll ich immer mich begnügen
Nur von altem Glück zu träumen?



CHIẾC LÁ VÀNG RUN RẨY

Chiếc lá vàng run rẩy
Ôi lá rụng lá rơi
Những gì ta yêu đấy
Sắp từ giã cõi đời.

Mặt trời chiếu trên rừng
Đã không còn sáng chói
Mùa hè đã qua gửi
Một nụ hôn cuối cùng. 

Anh muốn được khóc lên
Từ cõi lòng tê tái
Bức tranh này như gợi
Giờ chia tay với em.

Anh biết rằng số kiếp
Sắp kết liễu đời ta
Anh – mùa hè đã qua
Còn em – rừng đang chết. 

Das gelbe Laub erzittert 

Das gelbe Laub erzittert,
Es fallen die Blätter herab.
Ach! alles was hold und lieblich
Verwelkt und sinkt ins Grab!

Die Wipfel der Bäume umflimmert
Ein schmerzlicher Sonnenschein;
Das mögen die letzten Küsse
Des scheidenden Sommers seyn.

Mir ist als müßt’ ich weinen
Aus tiefstem Herzensgrund –
Dies Bild erinnert mich wieder
An unsre Abschiedstund.

Ich mußte dich verlassen
Und wußte du stürbest bald.
Ich war der scheidende Sommer,

Du warst der kranke Wald.


ĐÔI MẮT TƯỞNG ĐÃ QUÊN 

Đôi mắt tưởng đã quên
Từ những ngày xa vắng
Gặp lại vẫn say đắm
Bởi ánh nhìn dịu dàng. 

Hôn môi em lần nữa
Tôi như được hồi sinh
Ban ngày tôi phát điên
Đêm – hạnh phúc đầy đủ.

Để ý xem trên cằm
Một hố sâu đang lớn
Thế mà năm hai tám
Mới chỉ chút con con.

Augen, die ich längst vergessen

Augen, die ich längst vergessen,
Wollen wieder mich verstricken,
Wieder bin ich wie verzaubert
Von des Mädchens sanften Blicken.

Ihre Lippen küssen wieder
Mich in jene Zeit zurücke,
Wo ich schwamm des Tags in Torheit
Und des Nachts in vollem Glücke.

Wär nur nicht die tiefe Grube
In dem Kinn, geliebtes Liebchen:
Anno achtzehnhundertzwanzig
War dort nur ein leises Grübchen.



THÓI KIÊU CĂNG KHẲNG ĐỊNH 

Thói kiêu căng khẳng định
Em đã yêu anh rồi
Nhưng lý trí đính chính
Đấy chỉ lòng tốt thôi. 

Mong muốn làm điều tốt
Cho kẻ bị coi thường
Em làm cho người khác
Hạnh phúc gấp hai lần.

Em xinh đẹp dễ thương
Dịu dàng từng ánh mắt
Lời em như tiếng nhạc
Thơm ngát như hoa hồng.

Là sao từ trời xanh
Gửi lời chào thân ái
Soi sáng con đường anh
Xua buồn đau khổ ải.

Mir redet ein die Eitelkeit

Mir redet ein die Eitelkeit,
Dass du mich heimlich liebest;
Doch kluegre Einsicht fluestert mir,
Da; du nur Grossmut uebest;

Dass du den Mann zu wuerdgen strebst,
Den andre unterschaetzen,
Da; du mir doppelt guetig bist,
Weil andre mich verletzen.

Du bist so hold, du bist so schoen,
So troestlich ist dein Kosen!
Die Worte klingen wie Musik
Und duften wie die Rosen.

Du bist mir wie ein hoher Stern,
Der mich vom Himmel gruesset,
Und meine Erdennacht erhellt,
Und all mein Leid versuesset.


ÁNH NẮNG BUỔI HOÀNG HÔN ĐẸP VÔ CÙNG 

Ánh nắng buổi hoàng hôn đẹp vô cùng
Nhưng mắt em còn đẹp hơn thế nữa
Ánh hoàng hôn và ánh mắt rực lửa
Khơi dậy nỗi buồn giữa trái tim anh.

Ánh hoàng hôn báo hiệu ngày sắp đến
Là bóng đêm và những vết thương lòng
Sắp tới đây giữa con tim của anh
Và đôi mắt của em là biển rộng.

Es glänzt so schön die sinkende Sonne

Es glänzt so schön die sinkende Sonne,
Doch schöner ist deiner Augen Schein.
Das Abendrot und deine Augen,
Sie strahlen mir traurig ins Herz hinein.

Das Abendrot bedeutet Scheiden
Und Herzensnacht und Herzensweh.
Bald fließet zwischen meinem Herzen
Und deinen Augen die weite See. 



EM VIẾT RẤT CHÂN THÀNH 

Em viết rất chân thành
Trong bức thư vừa nhận
Rằng em sẽ yêu anh
Cho đến ngày cuối tận.

Em làm tôi lo lắng
Chắc là đang buồn đây
“Xa anh em buồn lắm
Hãy sang nước Anh ngay”.

Er ist so herzbeweglich

Er ist so herzbeweglich,
Der Brief den sie geschrieben:
Sie werde mich ewig lieben,
Ewig, unendlich, unsäglich.

Sie ennuyiere sich täglich,
Ihr sei die Brust beklommen -
»Du mußt herüberkommen
Nach England, so bald als möglich.«



Nàng tiên Lorelei - Thơ Heine


NÀNG TIÊN LÔRƠLÂY

Không hiểu được vì đâu
Mà lòng tôi buồn bã
Câu chuyện từ thời cổ
Cứ vương vấn trong đầu.

Sông Ranh trôi lững lờ
Đêm sắp buông, trời lạnh
Trên núi cao lấp lánh
Ánh nắng buổi chiều tà.

Cô gái đẹp tuyệt trần
Đang ngồi trên mỏm đá
Mái tóc nàng óng ả
Dưới chiếc lược màu vàng.

Vừa chải vừa cất lên
Một khúc ca tình tứ
Giai điệu này quyến rũ
Khiến lòng người xốn xang.

Người trên những chiếc thuyền
Thấy cõi lòng đau khổ
Quên đá ngầm hiểm trở
Chỉ ngước mắt nhìn lên.

Tôi nghĩ những người này
Và bao người đã chết
Chỉ vì mê câu hát
Của nàng Lôrơlây.
_________________
*Nàng tiên Lorelei (hoặc Loreley) là câu chuyện cổ nổi tiếng không chỉ ở Đức mà cả thế giới. Bài thơ này của Heine cũng nổi tiếng không kém.


Die Lorelei

Ich weiss nicht, was soll es bedeuten,
Dass ich so traurig bin,
Ein Märchen aus uralten Zeiten,
Das kommt mir nicht aus dem Sinn.
Die Luft ist kühl und es dunkelt,
Und ruhig fliesst der Rhein;
Der Gipfel des Berges funkelt,
Im Abendsonnenschein.

Die schönste Jungfrau sitzet
Dort oben wunderbar,
Ihr gold’nes Geschmeide blitzet,
Sie kämmt ihr goldenes Haar,
Sie kämmt es mit goldenem Kamme,
Und singt ein Lied dabei;
Das hat eine wundersame,
Gewalt’ge Melodei.

Den Schiffer im kleinen Schiffe,
Ergreift es mit wildem Weh;
Er schaut nicht die Felsenriffe,
Er schaut nur hinauf in die Höh’.
Ich glaube, die Wellen verschlingen
Am Ende Schiffer und Kahn,
Und das hat mit ihrem Singen,
Die Loreley getan.


NHÃ CA

Thân thể người phụ nữ
Quả là một bài thơ
Do Thượng Đế tạo ra 
Từ ngày đầu sáng tạo.

Trong một giờ nào đấy
Ngài đã rất vui mừng
Từ vật liệu đầu tiên
Ngài bắt đầu làm chủ.

Cơ thể người phụ nữ
Quả là một bài ca
Mà lời ca tuyệt vời
Không gì hơn được nữa.

Ý tưởng của Thượng Đế
Chính là chiếc cổ trần
Chính là mái tóc xoăn
Đặt ở trên đầu nhỏ.

Núm vú như nụ hồng
Là bài thơ trào phúng
Đẹp ngoài sự tưởng tượng
Là lạch nhỏ cách ngăn.

Ngài tạo ra cặp đùi
Như làm bằng nhựa dẻo
Đằng sau chiếc lá vả
Là nơi chốn tuyệt vời.

Thơ Ngài không trìu tượng
Có da thịt, tay chân
Biết cười và biết hôn
Bằng bờ môi âu yếm.

Thơ ở trong mọi chỗ
Thơ ở từng bước đi
Trên trán của bài ca
Đẹp đến mức hoàn mỹ.

Con khen Ngài, Thượng Đế
Trước Ngài, xin cúi mình!
So với Nhà thơ Thiên
Con chỉ đồ cẩu thả.

Con muốn chìm – Lạy Chúa!
Trong tác phẩm của Ngài
Suốt cả đêm cả ngày
Con miệt mài nghiên cứu.

Suốt cả đêm cả ngày
Con không ngừng tìm hiểu
Đôi chân con gầy yếu
Vì sự nghiên cứu này.


Das Hohelied

Des Weibes Leib ist ein Gedicht,
Das Gott der Herr geschrieben
Ins große Stammbuch der Natur,
Als ihn der Geist getrieben.

Ja, günstig war die Stunde ihm,
Der Gott war hochbegeistert;
Er hat den spröden, rebellischen Stoff
Ganz künstlerisch bemeistert.

Fürwahr, der Leib des Weibes ist
Das Hohelied der Lieder;
Gar wunderbare Strophen sind
Die schlanken, weißen Glieder.

O welche göttliche Idee
Ist dieser Hals, der blanke,
Worauf sich wiegt der kleine Kopf,
Der lockige Hauptgedanke!

Der Brüstchen Rosenknospen sind
Epigrammatisch gefeilet;
Unsäglich entzückend ist die Zäsur,
Die streng den Busen teilet.

Den plastischen Schöpfer offenbart
Der Hüften Parallele;
Der Zwischensatz mit dem Feigenblatt
Ist auch eine schöne Stelle.

Das ist kein abstraktes Begriffspoem!
Das Lied hat Fleisch und Rippen,
Hat Hand und Fuß; es lacht und küßt
Mit schöngereimten Lippen.

Hier atmet wahre Poesie!
Anmut in jeder Wendung!
Und auf der Stirne trägt das Lied
Den Stempel der Vollendung.

Lobsingen will ich dir, o Herr,
Und dich im Staub anbeten!
Wir sind nur Stümper gegen dich,
Den himmlischen Poeten.

Versenken will ich mich, o Herr,
In deines Liedes Prächten;
Ich widme seinem Studium
Den Tag mitsamt den Nächten.

Ja, Tag und Nacht studier ich dran,
Will keine Zeit verlieren;
Die Beine werden mir so dünn -
Das kommt vom vielen Studieren.


VUA DAVID

Vị bạo chúa mỉm cười
Biết rằng sau khi chết
Quyền về tay người khác
Mọi thứ sẽ đổi thay. 

Người cũng như con ngựa
Có cơ hội là làm
Và nó sẽ giật phăng
Cái ách treo trên cổ. 

Khi chết, vua David
Hỏi vua Solomon:
‘Con ơi, con nhớ không
Vị tướng giỏi Gia-ốp? 

Dũng cảm và gan góc
Nhưng hắn làm ta buồn
Đã từng rất nhiều năm
Mà chưa trừng trị được.

Con thông minh, đạo đức
Tin tưởng vào thánh thần
Điều này sẽ giúp con
Trừng trị tay Gia-ốp”.
___________
*Gia-ốp (Joab) – vị tướng của vua David trong Kinh Thánh. 

König David

Lächelnd scheidet der Despot,
Denn er weiß, nach seinem Tod’
Wechselt Willkür nur die Hände,
Und die Knechtschaft hat kein Ende.

Armes Volk! wie Pferd’ und Farrn
Bleibt er angeschirrt am Karrn,
Und der Nacken wird gebrochen,
Der sich nicht bequemt den Jochen.

Sterbend spricht zu Salomo
König David: A propos,
Daß ich Joab dir empfehle,
Einen meiner Generäle.

Dieser tapfre General
Ist seit Jahren mir fatal,
Doch ich wagte den Verhaßten
Niemals ernstlich anzutasten.

Du, mein Sohn, bist fromm und klug,
Gottesfürchtig, stark genug,
Und es wird dir leicht gelingen,
Jenen Joab umzubringen.



HỌ HÀNG ARSA

Con gái của nhà vua
Thường mỗi chiều rảo bước
Xung quanh đài phun nước
Nơi dòng nước rầm rì.

Chàng nô lệ trẻ măng
Cũng đến đài phun nước
Gương mặt chàng tái nhợt
Nhìn dòng nước thì thầm.

Công chúa bước đến gần
Hỏi thăm chàng trai trẻ:
“Ngươi tên là gì vậy
Dòng tộc và quê hương?”

Tôi là Ma-hô-mét
Quê ở Y-ê -men
Arsa là họ hàng
Của người yêu là chết”.

Der Asra 

Täglich ging die wunderschöne 
Sultanstocher auf und nieder 
Um die Abendzeit am Springbrunn, 
Wo die weißen Wasser plätschern. 

Täglich stand der junge Sklave 
Um die Abendzeit am Springbrunn, 
Wo die weißen Wasser plätschern; 
Täglich ward er bleich und bleicher. 

Eines Abends trat die Fürstin 
Auf ihn zu mit raschen Worten: 
Deinen Namen will ich wissen, 
Deine Heimat, deine Sippschaft! 

Und der Sklave sprach: Ich heiße 
Mohamet, ich bin aus Yemmen, 
Und mein Stamm sind jene Asra, 
Welche sterben, wenn sie lieben.



BIẾT VỀ ĐÂU LÚC NÀY?

Biết về đâu lúc này
Hay lại về nước Đức?
Nhưng lý trí dứt khoát
Thầm thì bên tai tôi:

“Dù chiến tranh không còn
Tòa án binh còn đó
Biết bao người bị xử
Ít nhiều có liên quan”.

Điều này thật khó chịu
Xử bắn hoặc bắt giam
Tôi chẳng phải anh hùng
Cũng không làm gì xấu.

Tôi muốn sang nước Anh
Nhưng có điều ở đó
Là mùi hương của họ
Sẽ làm tôi buồn nôn. 

Hay sẽ vượt đại dương
Đi thuyền sang nước Mỹ
Ai chẳng mong xứ sở
Tự do và giàu sang.

Có điều tôi ngại ngùng
Là người nhai thuốc lá
Và mọi nơi có thể
Nhổ nước bọt ra đường.

Nước Nga cũng dễ thương
Có thể là an ủi
Nhưng tôi không chịu nổi
Roi quất của mùa đông.

Tôi nhìn vào trời đêm
Giữa sao trời vô khối
Nhưng tôi không tìm thấy
Ngôi sao của riêng mình.

Giống như một mê cung
Của sao trời vô số
Giữa cuộc đời trần thế
Tôi đánh mất con đường.

Jetzt wohin?

Jetzt wohin? Der dumme Fuß
Will mich gern nach Deutschland tragen;
Doch es schüttelt klug das Haupt
Mein Verstand und scheint zu sagen:

Zwar beendigt ist der Krieg,
Doch die Kriegsgerichte blieben,
Und es heißt, du habest einst
Viel Erschießliches geschrieben.

Das ist wahr, unangenehm
Wär’ mir das Erschossen-werden;
Bin kein Held, es fehlen mir
Die pathetischen Geberden.

Gern würd’ ich nach England geh’n,
Wären dort nicht Kohlendämpfe
Und Engländer – schon ihr Duft
Giebt Erbrechen mir und Krämpfe.

Manchmal kommt mir in den Sinn
Nach Amerika zu segeln,
Nach dem großen Freiheitstall,
Der bewohnt von Gleichheits-Flegeln –

Doch es ängstet mich ein Land,
Wo die Menschen Tabak käuen,
Wo sie ohne König kegeln,
Wo sie ohne Spuknapf speien.

Rußland, dieses schöne Reich,
Würde mir vielleicht behagen,
Doch im Winter könnte ich
Dort die Knute nicht ertragen.

Traurig schau ich in die Höh’,
Wo viel tausend Sterne nicken –
Aber meinen eignen Stern
Kann ich nirgends dort erblicken.

Hat im güldnen Labyrinth
Sich vielleicht verirrt am Himmel,
Wie ich selber mich verirrt
In dem irdischen Getümmel. –


Xem thêm