NÀNG TIÊN LÔRƠLÂY
Không hiểu được vì đâu
Mà lòng tôi buồn bã
Câu chuyện từ thời cổ
Cứ vương vấn trong đầu.
Sông Ranh trôi lững lờ
Đêm sắp buông, trời lạnh
Trên núi cao lấp lánh
Ánh nắng buổi chiều tà.
Cô gái đẹp tuyệt trần
Đang ngồi trên mỏm đá
Mái tóc nàng óng ả
Dưới chiếc lược màu vàng.
Vừa chải vừa cất lên
Một khúc ca tình tứ
Giai điệu này quyến rũ
Khiến lòng người xốn xang.
Người trên những chiếc thuyền
Thấy cõi lòng đau khổ
Quên đá ngầm hiểm trở
Chỉ ngước mắt nhìn lên.
Tôi nghĩ những người này
Và bao người đã chết
Chỉ vì mê câu hát
Của nàng Lôrơlây.
_________________
*Nàng tiên Lorelei (hoặc
Loreley) là câu chuyện cổ nổi tiếng không chỉ ở Đức mà cả thế giới. Bài thơ này
của Heine cũng nổi tiếng không kém.
Die Lorelei
Ich weiss nicht, was soll es
bedeuten,
Dass ich so traurig bin,
Ein Märchen aus uralten
Zeiten,
Das kommt mir nicht aus dem
Sinn.
Die Luft ist kühl und es
dunkelt,
Und ruhig fliesst der Rhein;
Der Gipfel des Berges
funkelt,
Im Abendsonnenschein.
Die schönste Jungfrau sitzet
Dort oben wunderbar,
Ihr gold’nes Geschmeide
blitzet,
Sie kämmt ihr goldenes Haar,
Sie kämmt es mit goldenem
Kamme,
Und singt ein Lied dabei;
Das hat eine wundersame,
Gewalt’ge Melodei.
Den Schiffer im kleinen
Schiffe,
Ergreift es mit wildem Weh;
Er schaut nicht die
Felsenriffe,
Er schaut nur hinauf in die
Höh’.
Ich glaube, die Wellen
verschlingen
Am Ende Schiffer und Kahn,
Und das hat mit ihrem
Singen,
Die Loreley getan.
NHÃ CA
Thân thể người phụ nữ
Quả là một bài thơ
Do Thượng Đế tạo ra
Từ ngày đầu sáng tạo.
Trong một giờ nào đấy
Ngài đã rất vui mừng
Từ vật liệu đầu tiên
Ngài bắt đầu làm chủ.
Cơ thể người phụ nữ
Quả là một bài ca
Mà lời ca tuyệt vời
Không gì hơn được nữa.
Ý tưởng của Thượng Đế
Chính là chiếc cổ trần
Chính là mái tóc xoăn
Đặt ở trên đầu nhỏ.
Núm vú như nụ hồng
Là bài thơ trào phúng
Đẹp ngoài sự tưởng tượng
Là lạch nhỏ cách ngăn.
Ngài tạo ra cặp đùi
Như làm bằng nhựa dẻo
Đằng sau chiếc lá vả
Là nơi chốn tuyệt vời.
Thơ Ngài không trìu tượng
Có da thịt, tay chân
Biết cười và biết hôn
Bằng bờ môi âu yếm.
Thơ ở trong mọi chỗ
Thơ ở từng bước đi
Trên trán của bài ca
Đẹp đến mức hoàn mỹ.
Con khen Ngài, Thượng Đế
Trước Ngài, xin cúi mình!
So với Nhà thơ Thiên
Con chỉ đồ cẩu thả.
Con muốn chìm – Lạy Chúa!
Trong tác phẩm của Ngài
Suốt cả đêm cả ngày
Con miệt mài nghiên cứu.
Suốt cả đêm cả ngày
Con không ngừng tìm hiểu
Đôi chân con gầy yếu
Vì sự nghiên cứu này.
Das Hohelied
Des Weibes Leib ist ein Gedicht,
Das Gott der Herr geschrieben
Ins große Stammbuch der Natur,
Als ihn der Geist getrieben.
Ja, günstig war die Stunde ihm,
Der Gott war hochbegeistert;
Er hat den spröden, rebellischen Stoff
Ganz künstlerisch bemeistert.
Fürwahr, der Leib des Weibes ist
Das Hohelied der Lieder;
Gar wunderbare Strophen sind
Die schlanken, weißen Glieder.
O welche göttliche Idee
Ist dieser Hals, der blanke,
Worauf sich wiegt der kleine Kopf,
Der lockige Hauptgedanke!
Der Brüstchen Rosenknospen sind
Epigrammatisch gefeilet;
Unsäglich entzückend ist die Zäsur,
Die streng den Busen teilet.
Den plastischen Schöpfer offenbart
Der Hüften Parallele;
Der Zwischensatz mit dem Feigenblatt
Ist auch eine schöne Stelle.
Das ist kein abstraktes Begriffspoem!
Das Lied hat Fleisch und Rippen,
Hat Hand und Fuß; es lacht und küßt
Mit schöngereimten Lippen.
Hier atmet wahre Poesie!
Anmut in jeder Wendung!
Und auf der Stirne trägt das Lied
Den Stempel der Vollendung.
Lobsingen will ich dir, o Herr,
Und dich im Staub anbeten!
Wir sind nur Stümper gegen dich,
Den himmlischen Poeten.
Versenken will ich mich, o Herr,
In deines Liedes Prächten;
Ich widme seinem Studium
Den Tag mitsamt den Nächten.
Ja, Tag und Nacht studier ich dran,
Will keine Zeit verlieren;
Die Beine werden mir so dünn -
Das kommt vom vielen Studieren.
VUA DAVID
Vị bạo chúa mỉm cười
Biết rằng sau khi chết
Quyền về tay người khác
Mọi thứ sẽ đổi thay.
Người cũng như con ngựa
Có cơ hội là làm
Và nó sẽ giật phăng
Cái ách treo trên cổ.
Khi chết, vua David
Hỏi vua Solomon:
‘Con ơi, con nhớ không
Vị tướng giỏi Gia-ốp?
Dũng cảm và gan góc
Nhưng hắn làm ta buồn
Đã từng rất nhiều năm
Mà chưa trừng trị được.
Con thông minh, đạo đức
Tin tưởng vào thánh thần
Điều này sẽ giúp con
Trừng trị tay Gia-ốp”.
___________
*Gia-ốp (Joab) – vị tướng của vua David trong Kinh Thánh.
König David
Lächelnd scheidet der Despot,
Denn er weiß, nach seinem Tod’
Wechselt Willkür nur die Hände,
Und die Knechtschaft hat kein Ende.
Armes Volk! wie Pferd’ und Farrn
Bleibt er angeschirrt am Karrn,
Und der Nacken wird gebrochen,
Der sich nicht bequemt den Jochen.
Sterbend spricht zu Salomo
König David: A propos,
Daß ich Joab dir empfehle,
Einen meiner Generäle.
Dieser tapfre General
Ist seit Jahren mir fatal,
Doch ich wagte den Verhaßten
Niemals ernstlich anzutasten.
Du, mein Sohn, bist fromm und klug,
Gottesfürchtig, stark genug,
Und es wird dir leicht gelingen,
Jenen Joab umzubringen.
HỌ HÀNG ARSA
Con gái của nhà vua
Thường mỗi chiều rảo bước
Xung quanh đài phun nước
Nơi dòng nước rầm rì.
Chàng nô lệ trẻ măng
Cũng đến đài phun nước
Gương mặt chàng tái nhợt
Nhìn dòng nước thì thầm.
Công chúa bước đến gần
Hỏi thăm chàng trai trẻ:
“Ngươi tên là gì vậy
Dòng tộc và quê hương?”
Tôi là Ma-hô-mét
Quê ở Y-ê -men
Arsa là họ hàng
Của người yêu là chết”.
Der Asra
Täglich ging die wunderschöne
Sultanstocher auf und nieder
Um die Abendzeit am Springbrunn,
Wo die weißen Wasser plätschern.
Täglich stand der junge Sklave
Um die Abendzeit am Springbrunn,
Wo die weißen Wasser plätschern;
Täglich ward er bleich und bleicher.
Eines Abends trat die Fürstin
Auf ihn zu mit raschen Worten:
Deinen Namen will ich wissen,
Deine Heimat, deine Sippschaft!
Und der Sklave sprach: Ich heiße
Mohamet, ich bin aus Yemmen,
Und mein Stamm sind jene Asra,
Welche sterben, wenn sie lieben.
BIẾT VỀ ĐÂU LÚC NÀY?
Biết về đâu lúc này
Hay lại về nước Đức?
Nhưng lý trí dứt khoát
Thầm thì bên tai tôi:
“Dù chiến tranh không còn
Tòa án binh còn đó
Biết bao người bị xử
Ít nhiều có liên quan”.
Điều này thật khó chịu
Xử bắn hoặc bắt giam
Tôi chẳng phải anh hùng
Cũng không làm gì xấu.
Tôi muốn sang nước Anh
Nhưng có điều ở đó
Là mùi hương của họ
Sẽ làm tôi buồn nôn.
Hay sẽ vượt đại dương
Đi thuyền sang nước Mỹ
Ai chẳng mong xứ sở
Tự do và giàu sang.
Có điều tôi ngại ngùng
Là người nhai thuốc lá
Và mọi nơi có thể
Nhổ nước bọt ra đường.
Nước Nga cũng dễ thương
Có thể là an ủi
Nhưng tôi không chịu nổi
Roi quất của mùa đông.
Tôi nhìn vào trời đêm
Giữa sao trời vô khối
Nhưng tôi không tìm thấy
Ngôi sao của riêng mình.
Giống như một mê cung
Của sao trời vô số
Giữa cuộc đời trần thế
Tôi đánh mất con đường.
Jetzt wohin?
Jetzt wohin? Der dumme Fuß
Will mich gern nach Deutschland tragen;
Doch es schüttelt klug das Haupt
Mein Verstand und scheint zu sagen:
Zwar beendigt ist der Krieg,
Doch die Kriegsgerichte blieben,
Und es heißt, du habest einst
Viel Erschießliches geschrieben.
Das ist wahr, unangenehm
Wär’ mir das Erschossen-werden;
Bin kein Held, es fehlen mir
Die pathetischen Geberden.
Gern würd’ ich nach England geh’n,
Wären dort nicht Kohlendämpfe
Und Engländer – schon ihr Duft
Giebt Erbrechen mir und Krämpfe.
Manchmal kommt mir in den Sinn
Nach Amerika zu segeln,
Nach dem großen Freiheitstall,
Der bewohnt von Gleichheits-Flegeln –
Doch es ängstet mich ein Land,
Wo die Menschen Tabak käuen,
Wo sie ohne König kegeln,
Wo sie ohne Spuknapf speien.
Rußland, dieses schöne Reich,
Würde mir vielleicht behagen,
Doch im Winter könnte ich
Dort die Knute nicht ertragen.
Traurig schau ich in die Höh’,
Wo viel tausend Sterne nicken –
Aber meinen eignen Stern
Kann ich nirgends dort erblicken.
Hat im güldnen Labyrinth
Sich vielleicht verirrt am Himmel,
Wie ich selber mich verirrt
In dem irdischen Getümmel. –
Xem thêm
NHÃ CA
Thân thể người phụ nữ
Quả là một bài thơ
Do Thượng Đế tạo ra
Từ ngày đầu sáng tạo.
Trong một giờ nào đấy
Ngài đã rất vui mừng
Từ vật liệu đầu tiên
Ngài bắt đầu làm chủ.
Cơ thể người phụ nữ
Quả là một bài ca
Mà lời ca tuyệt vời
Không gì hơn được nữa.
Ý tưởng của Thượng Đế
Chính là chiếc cổ trần
Chính là mái tóc xoăn
Đặt ở trên đầu nhỏ.
Núm vú như nụ hồng
Là bài thơ trào phúng
Đẹp ngoài sự tưởng tượng
Là lạch nhỏ cách ngăn.
Ngài tạo ra cặp đùi
Như làm bằng nhựa dẻo
Đằng sau chiếc lá vả
Là nơi chốn tuyệt vời.
Thơ Ngài không trìu tượng
Có da thịt, tay chân
Biết cười và biết hôn
Bằng bờ môi âu yếm.
Thơ ở trong mọi chỗ
Thơ ở từng bước đi
Trên trán của bài ca
Đẹp đến mức hoàn mỹ.
Con khen Ngài, Thượng Đế
Trước Ngài, xin cúi mình!
So với Nhà thơ Thiên
Con chỉ đồ cẩu thả.
Con muốn chìm – Lạy Chúa!
Trong tác phẩm của Ngài
Suốt cả đêm cả ngày
Con miệt mài nghiên cứu.
Suốt cả đêm cả ngày
Con không ngừng tìm hiểu
Đôi chân con gầy yếu
Vì sự nghiên cứu này.
Das Hohelied
Des Weibes Leib ist ein Gedicht,
Das Gott der Herr geschrieben
Ins große Stammbuch der Natur,
Als ihn der Geist getrieben.
Ja, günstig war die Stunde ihm,
Der Gott war hochbegeistert;
Er hat den spröden, rebellischen Stoff
Ganz künstlerisch bemeistert.
Fürwahr, der Leib des Weibes ist
Das Hohelied der Lieder;
Gar wunderbare Strophen sind
Die schlanken, weißen Glieder.
O welche göttliche Idee
Ist dieser Hals, der blanke,
Worauf sich wiegt der kleine Kopf,
Der lockige Hauptgedanke!
Der Brüstchen Rosenknospen sind
Epigrammatisch gefeilet;
Unsäglich entzückend ist die Zäsur,
Die streng den Busen teilet.
Den plastischen Schöpfer offenbart
Der Hüften Parallele;
Der Zwischensatz mit dem Feigenblatt
Ist auch eine schöne Stelle.
Das ist kein abstraktes Begriffspoem!
Das Lied hat Fleisch und Rippen,
Hat Hand und Fuß; es lacht und küßt
Mit schöngereimten Lippen.
Hier atmet wahre Poesie!
Anmut in jeder Wendung!
Und auf der Stirne trägt das Lied
Den Stempel der Vollendung.
Lobsingen will ich dir, o Herr,
Und dich im Staub anbeten!
Wir sind nur Stümper gegen dich,
Den himmlischen Poeten.
Versenken will ich mich, o Herr,
In deines Liedes Prächten;
Ich widme seinem Studium
Den Tag mitsamt den Nächten.
Ja, Tag und Nacht studier ich dran,
Will keine Zeit verlieren;
Die Beine werden mir so dünn -
Das kommt vom vielen Studieren.
VUA DAVID
Vị bạo chúa mỉm cười
Biết rằng sau khi chết
Quyền về tay người khác
Mọi thứ sẽ đổi thay.
Người cũng như con ngựa
Có cơ hội là làm
Và nó sẽ giật phăng
Cái ách treo trên cổ.
Khi chết, vua David
Hỏi vua Solomon:
‘Con ơi, con nhớ không
Vị tướng giỏi Gia-ốp?
Dũng cảm và gan góc
Nhưng hắn làm ta buồn
Đã từng rất nhiều năm
Mà chưa trừng trị được.
Con thông minh, đạo đức
Tin tưởng vào thánh thần
Điều này sẽ giúp con
Trừng trị tay Gia-ốp”.
___________
*Gia-ốp (Joab) – vị tướng của vua David trong Kinh Thánh.
König David
Lächelnd scheidet der Despot,
Denn er weiß, nach seinem Tod’
Wechselt Willkür nur die Hände,
Und die Knechtschaft hat kein Ende.
Armes Volk! wie Pferd’ und Farrn
Bleibt er angeschirrt am Karrn,
Und der Nacken wird gebrochen,
Der sich nicht bequemt den Jochen.
Sterbend spricht zu Salomo
König David: A propos,
Daß ich Joab dir empfehle,
Einen meiner Generäle.
Dieser tapfre General
Ist seit Jahren mir fatal,
Doch ich wagte den Verhaßten
Niemals ernstlich anzutasten.
Du, mein Sohn, bist fromm und klug,
Gottesfürchtig, stark genug,
Und es wird dir leicht gelingen,
Jenen Joab umzubringen.
HỌ HÀNG ARSA
Con gái của nhà vua
Thường mỗi chiều rảo bước
Xung quanh đài phun nước
Nơi dòng nước rầm rì.
Chàng nô lệ trẻ măng
Cũng đến đài phun nước
Gương mặt chàng tái nhợt
Nhìn dòng nước thì thầm.
Công chúa bước đến gần
Hỏi thăm chàng trai trẻ:
“Ngươi tên là gì vậy
Dòng tộc và quê hương?”
Tôi là Ma-hô-mét
Quê ở Y-ê -men
Arsa là họ hàng
Của người yêu là chết”.
Der Asra
Täglich ging die wunderschöne
Sultanstocher auf und nieder
Um die Abendzeit am Springbrunn,
Wo die weißen Wasser plätschern.
Täglich stand der junge Sklave
Um die Abendzeit am Springbrunn,
Wo die weißen Wasser plätschern;
Täglich ward er bleich und bleicher.
Eines Abends trat die Fürstin
Auf ihn zu mit raschen Worten:
Deinen Namen will ich wissen,
Deine Heimat, deine Sippschaft!
Und der Sklave sprach: Ich heiße
Mohamet, ich bin aus Yemmen,
Und mein Stamm sind jene Asra,
Welche sterben, wenn sie lieben.
BIẾT VỀ ĐÂU LÚC NÀY?
Biết về đâu lúc này
Hay lại về nước Đức?
Nhưng lý trí dứt khoát
Thầm thì bên tai tôi:
“Dù chiến tranh không còn
Tòa án binh còn đó
Biết bao người bị xử
Ít nhiều có liên quan”.
Điều này thật khó chịu
Xử bắn hoặc bắt giam
Tôi chẳng phải anh hùng
Cũng không làm gì xấu.
Tôi muốn sang nước Anh
Nhưng có điều ở đó
Là mùi hương của họ
Sẽ làm tôi buồn nôn.
Hay sẽ vượt đại dương
Đi thuyền sang nước Mỹ
Ai chẳng mong xứ sở
Tự do và giàu sang.
Có điều tôi ngại ngùng
Là người nhai thuốc lá
Và mọi nơi có thể
Nhổ nước bọt ra đường.
Nước Nga cũng dễ thương
Có thể là an ủi
Nhưng tôi không chịu nổi
Roi quất của mùa đông.
Tôi nhìn vào trời đêm
Giữa sao trời vô khối
Nhưng tôi không tìm thấy
Ngôi sao của riêng mình.
Giống như một mê cung
Của sao trời vô số
Giữa cuộc đời trần thế
Tôi đánh mất con đường.
Jetzt wohin?
Jetzt wohin? Der dumme Fuß
Will mich gern nach Deutschland tragen;
Doch es schüttelt klug das Haupt
Mein Verstand und scheint zu sagen:
Zwar beendigt ist der Krieg,
Doch die Kriegsgerichte blieben,
Und es heißt, du habest einst
Viel Erschießliches geschrieben.
Das ist wahr, unangenehm
Wär’ mir das Erschossen-werden;
Bin kein Held, es fehlen mir
Die pathetischen Geberden.
Gern würd’ ich nach England geh’n,
Wären dort nicht Kohlendämpfe
Und Engländer – schon ihr Duft
Giebt Erbrechen mir und Krämpfe.
Manchmal kommt mir in den Sinn
Nach Amerika zu segeln,
Nach dem großen Freiheitstall,
Der bewohnt von Gleichheits-Flegeln –
Doch es ängstet mich ein Land,
Wo die Menschen Tabak käuen,
Wo sie ohne König kegeln,
Wo sie ohne Spuknapf speien.
Rußland, dieses schöne Reich,
Würde mir vielleicht behagen,
Doch im Winter könnte ich
Dort die Knute nicht ertragen.
Traurig schau ich in die Höh’,
Wo viel tausend Sterne nicken –
Aber meinen eignen Stern
Kann ich nirgends dort erblicken.
Hat im güldnen Labyrinth
Sich vielleicht verirrt am Himmel,
Wie ich selber mich verirrt
In dem irdischen Getümmel. –
Xem thêm
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét